Chẩn đoán dị ứng thuốc là một thách thức thực sự với nền y học hiện nay và một yếu tố quan trọng để vượt qua được thách thức này là bệnh nhân phải nhận được sự chăm sóc phù hợp từ các đơn vị chuyên khoa.
Dị ứng thuốc, theo định nghĩa của Hiệp hội Dị ứng và Miễn dịch lâm sàng Anh, là một phản ứng có hại của thuốc với cơ thể khi mà cơ chế miễn dịch đã được thiết lập. Tất cả các dạng penicillin tự nhiên và bán tổng hợp hoặc thuốc có cấu trúc tương tự nhau, chẳng hạn như cephalosporin hoặc carbapenems, có thể gây dị ứng. Những loại thuốc này, có vòng beta-lactam, được công nhận là một trong những nguyên nhân thường gặp nhất gây phản ứng thuốc ngay lập tức (trong vòng 1 giờ) và chậm (sau 72 giờ).
Chẩn đoán chính xác gặp nhiều khó khăn, nhưng chẩn đoán dị ứng là hoàn toàn có thể nếu bệnh nhân đã nhận ra các triệu chứng của dị ứng (ví dụ phát ban, phát ban liên quan đến nổi mề đay, thở khò khè, sưng tấy da hoặc cổ họng), hoặc trước đó đã có phản ứng tương tự với cùng một tác nhân hoặc một đại diện khác trong cùng một nhóm tác nhân. Các triệu chứng tiêu hóa đơn thuần không đại diện cho một trường hợp dị ứng thực sự và giải thích sinh học hoặc dược lý thay thế nên được loại trừ trước khi chẩn đoán dị ứng được thực hiện.
Phản ứng có hại với penicillin đã được báo cáo xảy ra với 0,2-0,5% bệnh nhân trong mỗi đợt điều trị. Tuy nhiên, chỉ có chưa tới 10% những người này thực sự bị dị ứng. Do đó, kháng sinh có thể bị ngừng sử dụng một cách không cần thiết, ảnh hưởng đến kết quả lâm sàng, làm tăng chi phí chăm sóc sức khỏe và có khả năng đóng góp vào sự phát triển của vi khuẩn kháng thuốc. Do đó chẩn đoán chính xác di ứng kháng sinh và thực hành quản lý tốt thuốc kháng khuẩn là chìa khoá để vượt qua thử thách này.
Delabelling – loại bỏ nhãn dị ứng với bệnh nhân không phù hợp – cho phép sử dụng các lựa chọn điều trị đầu tay. Đây thường là những loại kháng sinh hiệu quả với ít tác dụng phụ hơn, có phổ hoạt động hẹp hơn và hiệu quả hơn về chi phí. Sử dụng các tác nhân phổ hẹp hiệu quả khi có thể là một trong những mục tiêu chính của quản lý kháng khuẩn và đảm bảo sử dụng đúng thuốc đúng bệnh. Thực tiễn hiện tại về tình trạng loại bỏ nhãn dị ứng ở Anh khác nhau và có thể phụ thuộc vào các dịch vụ về điều trị dị ứng tại địa phương hay liệu dược sĩ có khả năng đánh giá về tình trạng dị ứng của bệnh nhân khi nhập viện hay không.
Dược sĩ, làm việc trong nhóm đa ngành rộng hơn, có thể kiểm soát hiệu quả nhiễm trùng ở bệnh nhân bị dị ứng kháng sinh bằng cách loại bỏ các nhãn di ứng không phù hợp với tình trạng dị ứng của bệnh nhân khi nhập viện (xem Hộp 1). Quá trình tối ưu hóa thuốc khi nhập viện hiện đang nằm trong sự quản lí của các bác sĩ và dược sĩ.
Bài viết này mô tả các hậu quả có thể xảy ra khi dán nhãn một bệnh nhân với một dị ứng kháng sinh; tác động đến kết quả điều trị của bệnh nhân; làm thế nào dược sĩ có thể thực hiện các cuộc điều tra thích hợp và loại bỏ nhãn di ứng thuốc không phù hợp cho bệnh nhân; và khi nào nên chuyển bệnh nhân đến các dịch vụ điều trị dị ứng chuyên khoa. Bài viết này sẽ giúp bổ sung cho một bài viết trước về việc xác định và quản lý dị ứng penicillin.
Contents
Cơ chế hoạt động và sự phổ biến
Beta-lactam
Phản ứng dị ứng với kháng sinh beta-lactam có thể được quy cho đặc tính hóa học và chuyển hóa thuốc trong cơ thể. Vòng beta-lactam (vòng thiazolidine trong penicillin và vòng dihydrothiazine trong cephalosporin) và các chuỗi gắn bên là yếu tố gây miễn dịch (xem Hình 1). Các chất chuyển hóa của thuốc có chứa các thành phần này hoạt động như haptens (kháng nguyên không hoàn toàn) có thể liên kết cộng hóa trị với các protein lớn hơn để tạo ra phản ứng miễn dịch, dẫn đến việc sản xuất kháng thể immunoglobulin E (IgE).
Sau khi dùng, benzylpenicillin sẽ trải qua quá trình chuyển hóa để tạo thành các sản phẩm trung gian phản ứng, chẳng hạn như benzylpenicilloyl, yếu tố quyết định kháng nguyên chính với hầu hết bệnh nhân bị dị ứng. Chất chuyển hóa này liên kết với protein và được sử dụng trong các bộ dụng cụ thử nghiệm trên da có sẵn trên thị trường ở Anh. Các chất chuyển hóa penicillin còn lại cũng có thể hoạt động như haptens (được gọi là yếu tố quyết định nhỏ) và chiếm khoảng 16% các phản ứng dị ứng. Dị ứng Beta-lactam đã được xác định là yếu tố nguy cơ độc lập có thể xảy ra đối với các nhóm dị ứng kháng sinh khác.
Non-beta-lactam
Phản ứng dị ứng với kháng sinh không beta-lactam xảy ra ít thường xuyên hơn và sốc phản vệ qua chất trung gian IgE rất hiếm gặp.
Sốc phản vệ với fluoroquinolones được báo cáo xảy ra với tỷ lệ mắc là 1,8-2,3 trên 10 triệu ngày điều trị và chiếm 4,5% trong tất cả các trường hợp sốc phản vệ do thuốc. Moxifloxicin có liên quan đến các phản ứng dị ứng nghiêm trọng hơn so với ciprofloxacin và levofloxacin. Có tới 70% dị ứng được báo cáo với moxifloxacin là phản ứng quá mẫn ngay lập tức; nó bị hạn chế sử dụng bởi Cơ quan quản lý các sản phẩm thuốc và chăm sóc sức khỏe do có liên quan đến các phản ứng ở gan không phải dị ứng nhưng đe dọa đến tính mạng. Ciprofloxacin thường liên quan nhất đến các phản ứng chậm trên da.
Tỷ lệ dị ứng Sulphonamide được báo cáo ở mức khoảng 2% và sốc phản vệ là hiếm gặp, nhưng bệnh nhân nhiễm HIV / AIDS có nguy cơ phản ứng cao hơn. Chúng có liên quan đến các phản ứng gây nguy hiểm hơn đến tính mạng bệnh nhân, chẳng hạn như hội chứng phát ban thuốc với tăng bạch cầu ái toan và các triệu chứng toàn thân (DRESS), thường xuất hiện từ hai đến mười tuần sau khi sử dụng thuốc.
Vancomycin có liên quan đến tình trạng dị ứng giả ‘hội chứng người đỏ’ (RMS), một phản ứng histamine độc lập với IgE với tỷ lệ mắc trên toàn thế giới là 3,7 đến 47%. Tốc độ tiêm truyền chậm đến 500mg / giờ giúp giảm đáng kể nguy cơ mắc RMS. Sốc phản vệ là có thể xảy ra nhưng hiếm gặp, và hội chứng Stevens, Johnson và hoại tử biểu bì nhiễm độc cũng đã được ghi nhận. Sốc phản vệ với teicoplanin đã được báo cáo với tỷ lệ mắc 1 trong khoảng 1.600 bệnh nhân phẫu thuật.
Các phản ứng quá mẫn qua trung gian Macrolide IgE là đặc hiệu với thuốc, không đặc hiệu nhóm và không phổ biến, xảy ra ở 0,4-3% bệnh nhân được điều trị. Phản ứng dị ứng với tetracycline rất hiếm, mặc dù phổ biến hơn với minocycline. Chúng có liên quan đến sốc phản vệ và phản ứng trên da đe dọa tính mạng (ví dụ DRESS). Lupus do thuốc đã được báo cáo với minocycline và có thể xuất hiện từ hai đến sáu năm sau khi bắt đầu.
Phản ứng dị ứng Aminoglycoside là cực kỳ hiếm, mặc dù các trường hợp sốc phản vệ và viêm da tiếp xúc đã được báo cáo với các chế phẩm tại chỗ.
Sốc phản vệ
Dự án Kiểm toán Quốc gia gần đây về sốc phản vệ phẫu thuật đã tuyên bố rằng kháng sinh là nguyên nhân chính gây sốc phản vệ trong thời gian phẫu thuật ở Anh, chiếm 46% các trường hợp được báo cáo với một tác nhân gây bệnh được xác định. Các tác giả đã tìm thấy tỷ lệ sốc phản vệ bằng kháng sinh là 4 trên 100.000 trường hợp, với teicoplanin, co-amoxiclav và vancomycin là phổ biến nhất. Đặc điểm lâm sàng phổ biến nhất của sốc phản vệ kháng sinh là hạ huyết áp, xảy ra ở 42% trường hợp và khởi phát sốc phản vệ trong vòng 5 phút ở 74% trường hợp, trong vòng 10 phút là 92% và trong tất cả các trường hợp sốc phản vệ đều xảy ra trong vòng 30 phút sau khi tiếp xúc với thuốc.
Biến mất dị ứng
Tránh dùng thuốc gây sốc phản vệ ban đầu dẫn đến giảm nồng độ kháng thể IgE và có thể biến mất hoàn toàn theo thời gian. Khoảng 80% bệnh nhân bị dị ứng thực sự với penicillin, được xác nhận bằng xét nghiệm da và tránh dùng penicillin sau khi chẩn đoán, sau đó được phát hiện có xét nghiệm da âm tính sau 10 năm. Có thể tái nhiễm viêm với penicillin sau khi tiếp xúc lại, nhưng tỷ lệ rất thấp, với mức độ tương tự như bệnh nhân không bị dị ứng trước đó. Tuy nhiên, bệnh nhân gặp phải các phản ứng dị ứng chậm nghiêm trọng (ví dụ hội chứng Stevens, Johnson, hoại tử biểu bì nhiễm độc và DRESS) không nên tiếp nhận tác nhân gây bệnh nữa, vì nguy cơ các phản ứng này tái phát không giảm theo thời gian.
Nhãn dị ứng Penicillin
Kháng sinh dựa trên Penicillin thường được sử dụng như điều trị đầu tay cho nhiễm trùng. Do đó, những bệnh nhân trước đây được chẩn đoán là dị ứng với penicillin, có ghi chú được đánh dấu bằng nhãn ‘dị ứng penicillin’, thường được kê đơn là các thuốc không phải penicillin thường tốn kém hơn, độc hại hơn và có thể ít hiệu quả hơn. Xem Hướng dẫn lâm sàng của Viện Sức khỏe và Chăm sóc Sức khỏe (NICE) 183 để biết thêm thông tin về nhận dạng và quản lý.
Sử dụng các kháng sinh phổ rộng thay thế penicillin ở bệnh nhân có nhãn di ứng không chính xác làm tăng nguy cơ nhiễm trùng trong tương lai với vi khuẩn kháng thuốc, như Staphylococcus aureus kháng methicillin , Enterococcus kháng vancomycin và Clostridioides difficile (trước đây gọi là Clostridium difficile ). Ngoài ra, bệnh nhân được tiếp xúc với nhiều loại kháng sinh hơn, bao gồm các tác nhân quinolone và carbapenem, góp phần gây thêm áp lực lựa chọn cho việc kháng thuốc.
Bệnh nhân được dán nhãn không chính xác cũng có thể bị từ chối các điều trị thích hợp với các dẫn xuất beta-lactam mới hơn một cách không cần thiết. Do đó, Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ và Hiệp hội Dịch tễ học Chăm sóc Sức khỏe Hoa Kỳ hướng dẫn về quản lý thuốc chống vi trùng khuyến cáo nên thúc đẩy đánh giá và xét nghiệm dị ứng, khi thích hợp.
Một cuộc khảo sát qua email của 55 bệnh viện ở Anh chỉ ra rằng có rất ít bằng chứng cho thấy các bệnh viện đang giải quyết vấn đề nhãn dị ứng penicillin không chính xác. Điều này có thể do thiếu các dịch vụ về dị ứng có sẵn, có nghĩa là bệnh nhân có nhãn dị ứng penicillin không chính xác có thể không hoàn toàn được xem xét và xác nhận bởi các dịch vụ dị ứng. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân có nguy cơ thấp (ví dụ những người chỉ trải qua các triệu chứng tiêu hóa hoặc có tiền sử phản ứng da chậm không nghiêm trọng) có thể được loại bỏ nhãn di ứng một cách an toàn mà không cần phải thực hiện xét nghiệm đánh giá dị ứng ở da.
Các dược sĩ làm việc với một nhóm đa ngành để thực hiện các đánh giá dị ứng, như được nêu trong Hộp 1, đã được chứng minh là làm giảm tiêu thụ không phải beta-lactam và tăng sử dụng beta-lactam đầu tay. Đây là vai trò cho các kỹ thuật viên dược phẩm có thể đóng góp vào quá trình này trong quá trình điều chỉnh thuốc.
Dược sĩ chăm sóc chính có thể đảm bảo tài liệu về tình trạng dị ứng càng chi tiết càng tốt và nêu bật nhãn dị ứng không phù hợp với bác sĩ đa khoa. Dược sĩ cộng đồng có thể đảm bảo bệnh nhân hiểu được sự khác biệt giữa dị ứng thực sự và tình trạng không dung nạp khi thảo luận về tình trạng dị ứng, cũng như hướng dẫn bệnh nhân cập nhật hoặc đánh giá về tình trạng dị ứng.
Bệnh nhân ‘dị ứng penicillin’
Mặc dù các chương trình phân định có sự tham gia của dược sĩ đã được chuyển giao thành công tại các bệnh viện ở Hoa Kỳ, nhưng việc giới thiệu các chương trình phân định dị ứng penicillin là một can thiệp phức tạp đòi hỏi phải thay đổi hành vi của cả chuyên gia chăm sóc sức khỏe và bệnh nhân. Các chuyên gia chăm sóc sức khỏe cần cảm thấy tự tin khi sử dụng các công cụ quyết định để loại bỏ những nhãn dán di ứng không chính xác như là dị ứng với penicillin và quá trình phân định cần được hỗ trợ bởi ban quản lý NHS. Sự sợ hại của bệnh nhân vì việc thiếu hiểu biết về nhãn dị ứng không phù hợp có thể ngăn cản các chuyên gia chăm sóc sức khỏe xóa bỏ tình trạng dị ứng không phù hợp ở bệnh nhân. Bệnh nhân đã được phân loại và cha mẹ của những đứa trẻ bị bệnh cần phải tin tưởng vào xét nghiệm và lời khuyên mà họ nhận được và việc sử dụng penicillin trong tương lai là an toàn nếu được chẩn đoán là không có dị ứng. Bệnh nhân và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe vẫn có thể tránh penicillin, ngay cả sau khi quá trình phân định đã diễn ra, nếu họ không tự tin vào quy trình phân định. Nhiều bệnh nhân vẫn giữ quan niệm về tình trạng dị ứng trong các ghi chú y khoa của họ mặc dù thử nghiệm cho kết quả âm tính với dị ứng.
Việc triển khai một dịch vụ gỡ bỏ nhãn dị ứng penicillin bền vững tại các bệnh viện NHS sẽ đòi hỏi sự hiểu biết và chuyên môn về những ảnh hưởng đến hành vi và cả các yếu tố về con người. Hướng dẫn làm thế nào để có thể gỡ bỏ nhãn dị ứng trong môi trường bệnh viện được cung cấp trong Hộp 1.
Cách tiếp cận này để làm rõ và loại bỏ nhãn dị ứng với penicillin, mà không sử dụng xét nghiệm đánh giá dị ứng ở da, được báo cáo là có nhãn dị ứng từ 16% đến 50% bệnh nhân, cho phép sử dụng liệu pháp penicillin đầu tay.
Hai nghiên cứu trường hợp (xem Bảng 1) minh họa các cách tiếp cận để quản lý làm rõ và loại bỏ nhãn dán dị ứng penicillin, và khi cần thực hiện xét nghiệm đánh giá dị ứng ở da.
Hộp 1: Hướng dẫn từng bước để xác định tầm quan trọng của dị ứng kháng sinh được báo cáo
Bước 1: Có được một lịch sử lâm sàng toàn diện và kiểm tra lâm sàng bệnh nhân
Thông tin được thu thập sẽ giúp xác định xem phản ứng xảy ra ngay sau khi dùng, hoặc nếu đó là phản ứng chậm hoặc không có sự tham gia của hệ thống. Viện Sức khỏe và Chăm sóc Sức khỏe Xuất sắc (NICE) cung cấp một danh sách toàn diện các câu hỏi có thể được sử dụng để đánh giá tiền sử của bệnh nhân; những câu hỏi này có thể được tìm thấy trong bài viết về dị ứng penicillin trước đây.
Bước 2: Rà soát hồ sơ y tế trước đó bao gồm cả hồ sơ GP
Bước 3: Bệnh nhân có gắn nhãn có các phản ứng không đặc hiệu (không miễn dịch)
Những người đã dung nạp kháng sinh penicillin kể từ giai đoạn đầu, không có tiền sử về tác dụng phụ của thuốc hoặc xét nghiệm dị ứng không dung nạp, không bắt buộc và có thể loại bỏ nhãn dị ứng mà không cần thực hiện xét nghiệm dị ứng.
Bước 4: Tham khảo các dịch vụ điều trị dị ứng
Kiểm tra da là cần thiết cho bệnh nhân có tiền sử không chắc chắn với dị ứng hoặc có tiền sử phù hợp với bệnh học miễn dịch (xem Hộp 2).
Bảng 1: Nghiên cứu trường hợp
Nghiên cứu điển hình 1
Một phụ nữ 28 tuổi lo lắng nhớ lại lần phát ban thời thơ ấu liên quan đến trị liệu bằng penicillin khi cô chưa đầy 5 tuổi. Cô ấy không thể nhớ được những gì cô ấy đã được điều trị tại thời điểm đó; tuy nhiên, cô nhớ lại mẹ cô nói rằng cô bị nổi mẩn đỏ khắp người. Không cần điều trị và phát ban đã biến mất trong vài ngày. Sau đó, cô đã dung nạp được với cephalexin. Dị ứng được liệt kê của cô là penicillin.
Bệnh nhân này có tiền sử phản ứng da chậm không nghiêm trọng hơn mười năm trước; do đó, nguy cơ dị ứng khi tiếp xúc lại với penicillin là thấp. Sau đó, cô đã sử dụng penicillin VK 250mg mà không cần kiểm tra da trước và không có bất kì tác dụng phụ nào. Cô đã dung nạp penicillin sau thử thách ấy.
Nghiên cứu điển hình 2
Một phụ nữ 74 tuổi bị nhiều bệnh đi kèm báo cáo có tiền sử dị ứng với amoxicillin từ một năm trước. Bà bị ngứa môi, chóng mặt, buồn nôn và đau ngực năm phút sau khi uống amoxicillin, được sử dụng để điều trị nhiễm trùng răng. Bệnh nhân gọi xe cứu thương; tuy nhiên, khi đến nơi bệnh nhân được ghi nhận là có huyết áp rất thấp (60 / 20mmHg) và ban đỏ toàn thân, họ đã sử dụng hai mũi tiêm bắp vào đùi cho bệnh nhân. Bệnh nhân được chuyển đến bệnh viện và ở trong phòng chăm sóc đặc biệt trong 24 giờ trước khi được xuất viện về nhà. Dị ứng được liệt kê của bệnh nhân là amoxicillin.
Bệnh nhân này mô tả một phản ứng nặng khởi phát ngay lập tức, có khả năng thứ phát sau amoxicillin. Kiểm tra da là cần thiết để xác định tình trạng dị ứng. Bệnh nhân đã được kiểm tra da với ampicillin và cho kết quả dương tính. Bệnh nhân dung nạp penicillin VK và cefuroxime qua đường uống sau xét nghiệm. Bệnh nhân đã tiếp tục tránh amoxicillin, ampicillin, cephalexin và cefaclor.
Giới thiệu đến các dịch vụ dị ứng chuyên khoa
NICE khuyến cáo rằng bệnh nhân nên được giới thiệu đến các chuyên gia dị ứng, nếu có, nếu họ có thể bị dị ứng với beta-lactam và có khả năng cần điều trị kháng khuẩn trong tương lai; ví dụ, bệnh nhân bị nhiễm trùng tái phát (ví dụ nhiễm trùng đường tiết niệu hoặc xơ nang), bệnh nhân có nguy cơ nhiễm trùng tái phát (ví dụ như giãn phế quản), hoặc bệnh nhân thường có nguy cơ nhiễm trùng cao hơn (ví dụ như họ bị giảm chức năng lách bình thường hoặc suy giảm miễn dịch khác) (xem Hộp 2).
Hộp 2: Các khuyến của NICE cho bệnh nhân cần chuyển đến trung tâm dị ứng chuyên khoa
Bệnh nhân nên được chuyển đến các phòng khám dị ứng chuyên khoa nếu họ đã có:
Một phản ứng nghi ngờ phản vệ với một loại thuốc;
Một phản ứng chậm trên da nghiêm trọng;
Một nghi ngờ dị ứng với kháng sinh beta-lactam và sẽ yêu cầu, hoặc có khả năng sẽ yêu cầu, điều trị bằng beta-lactam trong tương lai;
Một phản ứng dị ứng nghi ngờ với một loại kháng sinh beta-lactam và ít nhất một loại kháng sinh khác.
Tại thời điểm này, có 33 trung tâm dị ứng trên khắp Vương quốc Anh cung cấp dịch vụ điều trị cho người lớn, với 3 trung tâm ở Scotland và 1 trung tâm ở Wales và Bắc Ireland.
Các bài kiểm tra có sẵn
Thử nghiệm chích da, thử nghiệm trong da, cùng với thử thách uống thuốc và tiêm tĩnh mạch có thể được sử dụng cho những bệnh nhân cần được xét nghiệm dị ứng hơn nữa. Những xét nghiệm này rất quan trọng trong đó lịch sử mô tả các phản ứng dị ứng nghiêm trọng; đánh giá rủi ro chỉ dựa trên mô tả lịch sử là không đáng tin cậy.
Thử nghiệm chích da liên quan đến việc sử dụng bảng thuốc thử. Đối với xét nghiệm penicillin, nó bao gồm các yếu tố quyết định chính và phụ, amoxicillin và benzylpenicillin, cộng với amoxicillin / axit clavulanic nếu đây là thuốc vi phạm. Các tác nhân khác cũng có thể được sử dụng tùy thuộc vào loại thuốc được đề cập.
Thử nghiệm nên diễn ra trong một trung tâm dị ứng chuyên khoa để đảm bảo giải thích chính xác kết quả và xử lí nếu bênh nhân xảy ra phản ứng nghiêm trọng. Các xét nghiệm này nên được thực hiện tương đối nhanh sau phản ứng ban đầu, vì kết quả xét nghiệm dương tính càng ít có khả năng được xác định khi thời gian tăng lên. Thực hành tiêu chuẩn ở Anh là chờ sáu tuần sau khi phản ứng dị ứng ban đầu diễn ra để kiểm tra dị ứng. Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng để hỗ trợ điều này và thử nghiệm có thể được thực hiện sớm hơn nếu được yêu cầu. Kết quả xét nghiệm âm tính sớm có thể dẫn đến bệnh nhân phải kiểm tra lại vào một ngày sau đó.
Kết quả dương tính
Histamine được sử dụng kiểm định kết quả dương tính (kích thước vệt thu được có thể được sử dụng để so sánh) và natri clorua đóng vai trò là đối chứng âm. Đường kính vệt lớn hơn 3 mm so với đối chứng âm được coi là kết quả dương tính. Mẩn đỏ và ngứa cũng giúp khẳng định kết quả dương tích. Dựa trên lịch sử của phản ứng ban đầu, bệnh nhân được theo dõi trong 15-20 phút cho phản ứng ngay lập tức và tối đa 72 giờ cho phản ứng chậm.
Bệnh nhân cho kết quả dương tính với thử thách đường uống có thể cần phải trải qua quá trình giải mẫn cảm nếu không thể sử dụng kháng sinh thay thế hoặc khi cần một loại thuốc cụ thể để điều trị.
Nếu bất kỳ xét nghiệm cho kết quả dương tính được, bệnh nhân, bác sĩ đa khoa và bác sĩ lâm sàng có liên quan nên được thông báo về kết quả để đảm bảo các tài liệu phù hợp (xem Hộp 3). NICE cũng đưa ra khuyến nghị về thông tin và hỗ trợ của bệnh nhân (xem Hộp 4).
Hộp 3: Các khuyến nghị của NICE cho tài liệu về các phản ứng và dị ứng thuốc mới
Sử dụng định dạng có cấu trúc sau đây khi ghi lại các phản ứng thuốc mới. Chú thích:
Tên chung và tên độc quyền của thuốc;
Đường dùng;
Ngày và thời gian xảy ra phản ứng;
Chỉ định cho thuốc;
Liều dùng / ngày của thuốc trước khi xảy ra phản ứng;
Các thuốc này, hoặc những thuốc khác, có thể cần phải tránh trong tương lai.
Hộp 4: Thông tin và hỗ trợ bệnh nhân của NICE
Bệnh nhân kiểm tra về dị ứng thuốc tại các trung tâm dị ứng chuyên khoa nên được cung cấp các thông tin sau:
Chẩn đoán và liệu đó có phải là một phản ứng dị ứng thuốc hay không;
Tên của thuốc và một lời giải thích về phản ứng;
Các điều tra và thử nghiệm được sử dụng;
Loại thuốc mà bệnh nhân sẽ cần tránh trong tương lai.
Kết quả âm tính
Kết quả của xét nghiệm chích da và xét nghiệm trong da âm tính có nghĩa là bệnh nhân có thể nhận được một thử thách đường uống được phân loại để xác nhận rằng họ có thể dung nạp kháng sinh. Không yêu cầu thử nghiệm đường uống đối với bệnh nhân có xét nghiệm da dương tính và không được khuyến cáo cho bệnh nhân đã bị phản ứng da chậm nghiêm trọng trước đó, bị hen suyễn nặng hoặc đang dùng thuốc chẹn beta. Thuốc chẹn beta có thể được tạm thời giữ lại trong tối đa 48 giờ, dựa trên quyết định của bác sĩ tư của bệnh nhân hoặc bác sĩ tim mạch.
Kết quả xét nghiệm chích da âm tính thì xét nghiệm trong da nên được thực hiện. Kết quả được đánh giá ở các khoảng thời gian khác nhau, thường là 20 phút, 24 giờ, 48 giờ và 72 giờ.
Nếu xét nghiệm trong da là âm tính, bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng có thể quyết định liệu cho thử thách thuốc uống và tiêm tĩnh mạch có phù hợp hay không. Một ví dụ về xét nghiệm kích thích penicillin đường uống bao gồm 25mg, 100mg, 500mg và 1g liều amoxicillin được tiêm trong khoảng thời gian 30 phút, với các quan sát bệnh nhân tiêu chuẩn (ví dụ như mạch, huyết áp, bão hòa oxy và tốc độ thở ra cao điểm) trước khi bắt đầu liều tiếp theo và 1 giờ sau liều cuối cùng. Nếu các xét nghiệm đường uống và tiêm tĩnh mạch không đem lại kết quả, một đợt điều trị đầy đủ của kháng sinh (thường là năm ngày) được đưa ra theo hướng dẫn tại địa phương và bệnh nhân được liên hệ vào cuối khóa học để thiết lập sự dung nạp thuốc lâm sàng. Một kế hoạch quản lý kỹ lưỡng với điều trị khẩn cấp nên được cung cấp trong trường hợp phản ứng dị ứng xảy ra tại nhà.
Vai trò của chuyên gia dược
Dược sĩ nên có thể làm rõ bản chất của dị ứng, tầm quan trọng của phản ứng với kháng sinh và xác định xem những thuốc này và các nhóm kháng sinh liên quan có cần phải tránh trong tương lai hay không. Dược sĩ có thể đảm bảo tài liệu rõ ràng về tình trạng dị ứng và dược sĩ cộng đồng nói riêng có thể nên thảo luận về dị ứng và sự khác biệt giữa dị ứng và không dung nạp thuốc với bệnh nhân; ví dụ, trước khi họ mua thuốc không kê đơn hoặc khi phân liều cho kháng sinh. Dược sĩ cũng có thể đưa ra lời khuyên về việc bệnh nhân nên được chuyển đến các phòng khám dị ứng chuyên khoa hay không.
Nguồn: pharmaceutical-journal.com