Các nhóm thuốc được dùng để điều trị ung thư

0
1890
Các nhóm thuốc điều trị ung thư
Các nhóm thuốc điều trị ung thư

Có nhiều loại thuốc được sử dụng trong điều trị bệnh ung thư, chúng được phân loại theo khối lượng phân tử hoặc cơ chế tác dụng của thuốc. Với mỗi bệnh ung thư, có các loại thuốc khác nhau được phê duyệt chỉ định riêng cho loại ung thư đó.

Contents

1. Hóa trị liệu

Các phân tử có cơ chế ngăn chặn phát triển chu kỳ của tế bào ung thư được cân nhắc xếp vào nhóm thuốc hóa trị. Chu kỳ tế bào là một vòng tuần hoàn bao gồm các pha khác nhau nơi tế bào nhân đôi thông qua phân bào. Các tế bào không thể phát triển trong chu kỳ tế bào cuối cùng sẽ chết theo chương trình. Do tế bào ung thư có tỷ lệ phân chia cao, nên hóa trị là yếu tố có thể ngăn chặn sự tăng sinh của tế bào ung thư thông qua ức chế chu kỳ tế bào, dẫn đến các tế bào ung thư chết theo chương trình. Hóa trị gây chết tế bào vì vậy, các yếu tố này được gọi là yếu tố gây độc tế bào ung thư.

Các nhóm thuốc điều trị ung thư

Đã có nhiều loại thuốc khác nhau trong hóa trị liệu, được phân loại theo cơ chế tác dụng cụ thể của chúng. Các loại thuốc này bao gồm:

  • Yếu tố liên kết alkyl
  • Yếu tố gây ảnh hưởng tới chức năng tế bào thông qua việc gắn vào AND, các protein hay ARN;
  • Yếu tố kháng chuyển hóa các chất tương tự thay thế cho những chất chuyển hóa thiết yếu trong tổng hợp AND hay ARN của tế bào ung thư;
  • Các loại kháng sinh kháng khối u, tích hợp và phá vỡ AND;
  • Chất ức chế enzym topoisomerase, ngăn chặn sự sao chép DNA;
  • Các tác nhân liên kết với tubulin, ngăn chặn các vi ống hình thành trong quá trình nguyên phân.

Các loại thuốc hóa trị khác nhau thường được phối hợp sử dụng vì chúng tấn công vào các giai đoạn khác nhau của chu kì tế bào ung thư. Do đó, sự phối hợp các yếu tố hóa trị khác nhau có thể làm tăng hiệu quả tiêu diệt tế bào ung thư.

Các tác dụng phụ hay gặp của hóa trị liệu thường liên quan đến tác dụng gây độc tế bào bình thường trong cơ thể. Tuy nhiên các tác dụng phụ thường khác nhau đối với mỗi loại thuốc hóa trị khác nhau, còn tùy thuộc vào liều lượng và thời gian sử dụng. 
Ngoài ra, các tác dụng phụ này cũng cá thể hóa trên từng bệnh nhân, ảnh hưởng bởi từng đặc điểm riêng biệt của bệnh nhân.

Cách sử dụng hóa trị liệu tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Các thuốc hóa trị có thể được sử dụng bằng đường uống, đường tiêm tĩnh mạch, tiêm động mạch, tiêm dưới da, tiêm tủy sống hay sử dụng tại chỗ.

2. Thuốc phân tử nhỏ

Các nhóm thuốc điều trị ung thư

Các thuốc phân tử nhỏ là những yếu tố đủ nhỏ để có thể nhắm vào đích tế bào ung thư gây nên tác dụng điều trị bệnh. Hầu hết các thuốc phân tử nhỏ đều được sử dụng như một tác nhân điều trị nhắm đích cụ thể trên tế bào liên quan đến sự tăng sinh tế bào, khả năng sống sót, di căn và tạo mạch của tế bào ung thư. Bởi vì các thuốc phân tử nhỏ đều có đích điều trị cụ thể nên chúng thường được xem là yếu tố điều trị đích. Tuy vậy, các loại thuốc khác như kháng thể đơn dòng cũng được xem là yếu tố điều trị đích.

Có nhiều loại thuốc phân tử nhỏ, được phân loại dựa trên các yếu tố đích mà chúng tác động.

Ví dụ: loại thuốc chính trong các thuốc phân tử nhỏ là các thuốc ức chế Tyrosin kinase (TKIs – Tyrosine kinase inhibitors), là yếu tố ức chế các protein (Tyrosin kinase) nằm bên trong hoặc bộc lộ trên bề mặt tế bào ung thư.

Ví dụ cụ thể hơn là các thuốc ức chế thụ thể tăng trưởng biểu mô (EGFR – Epidermal growth factor receptor), là các thuốc phân tử nhỏ ngăn cản thụ thể kết nối phối tử dẫn đến ngừng hoạt động con đường tín hiệu EGFR.

Tác dụng phụ của các thuốc phân tử nhỏ do sự ảnh hưởng của thuốc đó đến một số đích điều trị không chỉ có mặt trong tế bào ung thư mà còn có cả trên tế bào bình thường hoặc do các thuốc này không hoàn toàn nhắm tới chỉ một đích riêng biệt. Tác dụng phụ do các thuốc phân tử nhỏ gây ra phụ thuộc vào cơ chế tác động của thuốc và thường chấp nhận được.

Các thuốc phân tử nhỏ thường được sử dụng đường uống, thuận tiện cho bệnh nhân.

3. Kháng thể đơn dòng (mAbs – Monoclonal antibodies)

Kháng thể đơn dòng là các tác nhân sinh học có kích thước lớn, được tổng hợp từ các sinh vật sống, được nghiên cứu và phát triển trong phòng thí nghiệm nhằm mục đích nhận biết và gắn đặc hiệu trên các đích tế bào ung thư hay trong vòng tuần hoàn.

Các nhóm thuốc điều trị ung thư

Bằng cách đó, chúng ức chế thụ thể liên kết bề mặt hoặc tín hiệu dẫn truyền xuôi dòng, kích thích chu trình tự chết hoặc gây ảnh hưởng lên hệ thống miễn dịch của tế bào.

Một số kháng thể đơn dòng được xem như liệu pháp đích vì chúng có thể gắn vào một đích protein cụ thể liên quan đến con đường tín hiệu.

Ví dụ như trastuzumab có đích là protein HER2 hay bevacizumab nhắm vào nhân tố tăng trưởng mạch máu nội mô (VEGF – Vascular endothelial growth factor). Ngoài ra, có các kháng thể đơn dòng có khả năng khiến hệ thống miễn dịch nhận ra một tế bào ung thư là ngoại lai, dẫn đến gây chết các tế bào ung thư này. Các kháng thể này được gọi là liệu pháp miễn dịch, ví dụ như yếu tố ức chế điểm kiểm soát miễn dịch.

Tác dụng phụ do kháng thể đơn dòng gây ra phụ thuộc vào cơ chế hoạt động cụ thể của chúng. Tuy nhiên, tất cả các kháng thể đơn dòng có thể gây ra phản ứng dị ứng như phản ứng phản vệ hoặc phản ứng liên quan đến truyền dịch. Hầu hết tác dụng phụ này được coi là nhẹ.

Các kháng thể đơn dòng có kích thước lớn và thực tế thường bị phá hủy trong môi trường acid của dạ dày nên chúng được sử dụng đường tiêm tĩnh mạch.

4. Tổ hợp thuốc – kháng thể (ADCs – Antibody-drug conjugates)

Các nhóm thuốc điều trị ung thư

Các ADC gồm một phân tử thuốc gắn với một kháng thể, chúng có cơ chế tác dụng song song: kháng thể có khả năng gắn vào các phân tử đặc hiệu trên tế bào ung thư, kích thích sự nhập nội bào của thuốc, sau đó, phân tử thuốc sẽ được giải phóng và gây chết tế bào ung thư. Tác dụng chống lại tế bào ung thư của các ADC liên quan tới ba phần hình thành nên một ADC: một kháng thể đơn dòng như một yếu tố gắn vào các phân tử đích trên tế bào ung thư, một phân tử nhỏ có vai trò gây độc tế bào ung thư và một liên kết nối kháng thể và thuốc phân tử nhỏ.

Các nhóm thuốc điều trị ung thư

Vì ADC là điều trị nhắm đích trên các tế bào ung thư, thuốc phân tử nhỏ trong ADC có tiềm năng mạnh hơn, được sử dụng với ít tác dụng ngoài mục tiêu hơn so với thuốc trong hóa trị liệu thông thường.

Một số loại “tổ hợp thuốc-kháng thể” lưu hành trên thị trường như:

  • “brentuximab vedotin” dùng điều trị một vài loại ung thư hệ bạch huyết (lymphoma)
  • “trastuzumab emtansine” dùng điều trị ung thư ngực giai đoạn muộn sau khi điều trị với conventional chemotherapeutics.

Cơ chế gây nên tác dụng phụ của các ADC vẫn còn chưa sáng tỏ, song được biết đến có liên quan nhiều đến tác dụng phụ của thuốc phân tử nhỏ trong các ADC. Ngoài ra, phản ứng dị ứng cũng thường gặp bởi vì các ADC chứa kháng thể đơn dòng – một yếu tố điều biến miễn dịch. Tương tự với các kháng thể đơn dòng, ADC được sử dụng đường tiêm truyền tĩnh mạch.